BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp đảm bảo an toàn, phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ 24 – 26 tháng tuổi trong trường mầm non”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục Mầm non.
3. Tác giả:
Họ và tên: Phạm Thị Tuyến
Ngày tháng năm sinh: 19/01/1988
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Mầm non Trung Lập
Điện thoại: DĐ:
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Mầm non Trung Lập
Địa chỉ: Áng Dương – Trung Lập – Vĩnh Bảo – Hải Phòng
Điện thoại:
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT.
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là chủ nhân tương lai của đất nước, là lớp người kế tục những truyền thống quý báu của dân tộc. Chính vì những lẽ đó mà chúng ta, những người giáo viên mầm non đang hàng ngày chăm sóc và nuôi dưỡng những mầm xanh của tương lai đất nước cần phải biết cách chăm sóc và bảo vệ để những mầm xanh ấy lớn lên sẽ là những chủ nhân của tương lai đất nước hoàn toàn khỏe mạnh.
Như chúng ta đã biết tai nạn thương tích là một tai nạn bất ngờ xảy ra, không lường trước được và gây ra những tổn thương trên cơ thể mà không có gì bù đắp được. Ở lứa tuổi mầm non nói chung và độ tuổi 24 – 36 tháng tuổi nói riêng, các con thường rất hiếu động, thích tò mò, khám phá và chưa có kiến thức, kỹ năng phòng tránh nên rất dễ bị tai nạn thương tích. Vì vậy việc đảm bảo an toàn, phòng tránh tai nạn cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu ở trong các trường mầm non. Năm học 2024 – 2025 được sự phân công của Ban giám hiệu nhà trường tôi phụ trách chủ nhiệm lớp Nhà trẻ D3, để đảm bảo đảm bảo an toàn, phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ bản thân tôi cùng các đồng nghiệp đã áp dụng một số Sáng kiến đang được triển khai tại một số trường mầm non trong thành phố như:
Sáng kiến “Phối hợp với cha mẹ trẻ nhằm đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non” của tác giả Phạm Thùy Trang trường mầm non Cát Bi – Hải Phòng.
Sáng kiến “Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp đảm bảo an toàn cho trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non” của tác giả Nguyễn Hồng Huệ trường mầm non Yên Lãng – Tiên Lãng.
Sáng kiến “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng nhận biết các nguy cơ không an toàn trong trường lớp mầm non” của tác giả Lê Thị Hằng trường mầm non Dư Hàng Kênh - Hải Phòng.
Trong quá trình thực hiện tôi thấy những Sáng kiến đã áp dụng trên có những ưu điểm và hạn chế sau:
II.1. Ưu điểm.
Những sáng kiến này cơ bản bước đầu đã giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi có kiến thức về những nguy cơ mất an toàn xung quanh trẻ. Giáo viên có định hướng đúng, có sự phối hợp của phụ huynh trong việc tổ chức, thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn cho trẻ trong trường mầm non.
II.2. Hạn chế.
Bên cạnh ưu điểm mà những Sáng kiến trên mang lại tôi nhận thấy những sáng kiến này khi áp dụng vào thực tế trong việc chăm sóc giáo dục trẻ chưa thực sự mang lại hiệu quả cao vì những sáng kiến này nghiên cứu các nội dung mang tính chất riêng lẻ, mới chỉ chú trọng tới vai trò xây dựng, triển khai của giáo viên và phụ huynh mà chưa phát huy được khả năng của trẻ. Tuy nhiên với quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm hiện nay thì giáo viên cần tạo những cơ hội, những điều kiện để bản thân trẻ nhìn nhận ra các nguy cơ không an toàn, trẻ có ý thức phòng tránh. Cha mẹ, giáo viên cùng đồng hành giám sát, hỗ trợ để trẻ được đảm bảo an toàn.
Dựa trên những ưu điểm cũng như nhận ra những tồn tại cần khắc phục của những Sáng kiến đang áp dụng cùng với mong muốn 100% trẻ của lớp, của trường nơi tôi đang công tác được an toàn mọi lúc mọi nơi, vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài Sáng kiến: “Một số biện pháp đảm bảo an toàn, phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ 24-36 tuổi trong trường mầm non” để nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ trong nhà trường.
III. NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN.
III.1. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến.
Biện pháp 1: Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học an toàn.
Môi trường trong và ngoài lớp học cũng là yếu tố cần thiết cho sự an toàn của trẻ khi ở trường mầm non.Trường tôi được xây dựng cở sở hạ tầng hai tầng rất khang trang, Trong lớp không gian rộng rãi thoáng mát, có đầy đủ đồ dùng cá nhân cho trẻ, các góc chơi đẹp, phong phú. Để thu hút được trẻ tôi và cô giáo cùng lớp đã cẩn thận, tỉ mỉ trang trí, thiết kế, sắp đặt các góc sao cho phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Trong lớp tôi luôn tìm tòi sáng tạo để làm thêm nhiều góc chơi đẹp và an toàn như: Góc thiên nhiên, góc bé học tập, góc nghệ thuật, góc phân vai, góc xây dựng, góc kể chuyện…các góc tôi đều trang trí thật đẹp và ngộ nghĩnh hấp dẫn, bày nhiều đồ chơi những đồ dùng đồ chơi đều được giáo viên thiết kế đảm bảo về kích thước, về chất liệu cũng như quá trình sử dụng phải thực sự an toàn với trẻ. Đối với các giá kệ cố định đều được bắt vít cẩn thận, những giá đồ chơi có chiều cao phù hợp và đồ chơi được sắp xếp cẩn thận không quá tầm với của trẻ.
(Hình ảnh 1: Xây dựng môi trường trong lớp học ĐBAT, phòng chống
tai nạn thương tích)
Khu vực phòng học, phòng vệ sinh cũng như sân trường tôi luôn luôn giữ gìn sạch sẽ và khô thoáng, không để nước làm ướt sàn để tránh trẻ đi lại bị trơn trượt. Ở các nơi nguy hiểm như ổ điện, lan can, nhà vệ sinh... tôi luôn treo tranh ảnh cảnh báo nguy hiểm và hướng dẫn giáo dục trẻ tránh xa những nơi có tranh cảnh báo. Đồ dùng đồ chơi trong lớp và ngoài trời được sắp xếp gọn gàng, khoa học, trẻ được tham gia các hoạt động một cách an toàn và có hiệu quả.
(Hình ảnh 2: Đồ dùng đồ chơi ngoài trời được sắp xếp bố trí để đảm bảo
an toàn cho trẻ)
Biện pháp 2: Giáo viên luôn giám sát trẻ mọi lúc, mọi nơi.
Giáo viên không nên để bé chơi một mình dù chỉ trong tích tắc. Trẻ 24-36 tháng tuổi phải luôn luôn được sự chăm sóc, trông coi của người có trách nhiệm. Cô giáo phải thường xuyên theo dõi, bao quát trẻ trong mọi hoạt động. Luôn luôn để mắt đến trẻ mọi lúc, mọi nơi vì ở tuổi mầm non trẻ hiếu động và luôn muốn khám phá mọi đồ vật xung quanh bằng tất cả khả năng của mình: Mắt nhìn, tay sờ và... ngậm vào miệng để nếm thử. Để đảm bảo an toàn và phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ tôi thực hiện như sau:
Hoạt động đón trả trẻ: Hàng ngày giáo viên nhận trẻ trực tiếp từ tay cha mẹ trẻ, đếm và kiểm tra trẻ nhiều lần trong ngày. Đóng cửa, cổng trường khi không có người ra vào. Khi trò chuyện với trẻ cô tổ chức chơi một số trò chơi như tập vông, tay xinh... (gợi ý xem trẻ có đồ gì trong túi thì bỏ ra chơi cùng) để xem ai có gì trong túi quần áo không, từ đó cô có thể loại bỏ những đồ chơi nhỏ mà trẻ nhặt được hoặc mang từ nhà đến.
Hoạt động học: Thường ít gây ra tai nạn nhưng ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ. Trẻ có thể đùa nghịch chọc bút vào mặt nhau (chọc vào mắt nhau). Nhất là với các hoạt động sử dụng đất nặn cần chú ý không để trẻ nghịch đất nặn nhét vào tai, mũi của nhau rất nguy hiểm.
Không sử dụng các loại chai, lọ đựng thuốc, đựng màu độc hại làm đồ chơi cho trẻ.
Giáo viên luôn lồng ghép, tích hợp giáo dục về an toàn cho trẻ trong mọi chủ đề, lồng ghép nội dung phòng tránh tai nạn thương tích vào chương trình giáo dục.
Ví dụ: Chủ đề “Đồ dùng đồ chơi”: Khi chơi đồ chơi phải như thế nào? nếu đưa vào miệng sẽ bị làm sao...
Chủ đề “Gia đình”: Lồng ghép các câu hỏi: “Những đồ dùng nào trong gia đình có thể gây nguy hiểm trẻ không được đến gần” (các đồ dùng sử dụng điện, phích đựng nước nóng, dao, kéo...)
Chủ đề “Phương tiện giao thông”: Biển báo giao thông đơn giản, đèn tín hiệu, khi tham gia giao thông các bé cũng phải nhớ đội mũ bảo hiểm....
Chủ đề “Thực vật”: Giáo dục trẻ không được leo trèo lên cành cây sẽ bị ngã rất nguy hiểm….
Hoạt động góc: Khi chơi trong lớp, trẻ có thể gặp các tai nạn như dị vật mũi, tai do trẻ tự nhét đồ chơi (hạt cườm, con xúc sắc, các loại hạt quả, đất nặn...) vào mũi, tai mình hoặc nhét vào tai bạn, mũi bạn. Trẻ hay ngậm hoặc chọc đồ chơi vào mồm gây rách niêm mạc miệng, hít vào gây dị vật đường thở, nuốt vào gây dị vật đường ăn. Vì vậy cô cần chuẩn bị những đồ chơi kích thước lớn, không cho trẻ sử dụng các đồ chơi quá nhỏ, tránh trường hợp trẻ cho vào miệng mũi. Giáo viên không cho trẻ chạy, xô đẩy nhau tránh va vào thành bàn, cạnh ghế, mép tủ...có thể gây chấn thương.
(Hình ảnh 3: Lựa chọn đồ dùng đồ chơi đảm bảo an toàn cho trẻ)
Hoạt động ngoài trời: Trong giờ chơi vì ở ngoài trời, trẻ rất ham chơi nên có thể gặp các tai nạn như: Chấn thương phần mềm, rách da, gãy xương... nguyên nhân thường do trẻ đùa nghịch, xô đẩy nhau, dùng que làm kiếm nghịch, đấu kiếm, chọc vào nhau và trẻ có thể vô tình chọc vào mắt gây chấn thương. Ngoài ra, trẻ còn chơi đùa cầm gạch, sỏi, đá ném nhau hoặc chạy nhảy va vào các bậc thềm gây chấn thương. Vì vậy trước khi cho trẻ ra hoạt động ngoài trời cô chú ý đếm trẻ, kiểm tra khu vực sân trẻ quan sát có chủ đích. Giao hẹn sân chơi quy định, phải đảm bảo đó là nơi thoáng mát... Không để trẻ chơi gần các bụi rậm, nơi có tổ ong, tổ kiến để đề phòng rắn cắn, ong đốt, kiến cắn. Ở thang leo, xích đu, cầu trượt cần đặt các miếng thảm gai để khi trẻ tiếp đất được an toàn, không bị trầy xước khi va vào nền bê tông. Loại bỏ các vật sắc nhọn bằng kim loại, gốm, sắt, đá, sỏi... khỏi nơi vui chơi của trẻ, vì vậy cô phải luôn bao quát ở bên trẻ để đảm bảo trẻ vui chơi mà vẫn an toàn. Cô kịp thời giải thích ngay cho trẻ về sự nguy hiểm của các vật nhọn khi chơi, đùa nghịch hay sinh hoạt để trẻ có thể ghi nhớ ngay và cẩn thận hơn khi chơi.
(Hình ảnh 4: Môi trường an toàn cho trẻ tham gia hoạt động ngoài trời)
Hoạt động vệ sinh: Không nên để trẻ một mình vào nơi chứa nước kể cả xô chậu nước, khi dùng xong giáo viên cần đổ hết nước, úp xô, chậu, đảm bảo các xô, thùng không chứa nước trong nhà vệ sinh. Giám sát khi trẻ đi vệ sinh, khi trẻ chơi gần khu vực có chứa nguồn nước.
Hoạt động ăn: Vào giờ ăn trẻ rất hiếu động háu ăn vì thế khi thức ăn mang từ nhà bếp lên đang còn nóng cô cần để nguội bớt rồi mới chia về bàn cho trẻ. Kiểm tra thức ăn trước khi cho trẻ ăn, uống. Tránh cho trẻ ăn thức ăn, nước uống còn quá nóng. Không ép trẻ ăn, uống khi trẻ đang khóc, trẻ vừa ăn, vừa cười đùa hoặc khi trẻ đang khóc mà cô cố ép trẻ ăn, uống đều rất dễ gây sặc cho trẻ. Vì thế cô phải để trẻ ăn trong tâm trạng thật thoải mái, không cố ép trẻ. Khi ăn cần cho trẻ ăn ở tư thế ngồi, nhắc trẻ ăn từ từ, nhai kỹ. Giáo dục trẻ khi ăn không được vừa ăn, vừa đùa nghịch, nói chuyện dễ bị sặc, nghẹn. Dị vật đường ăn thường gặp là hóc xương, nghẹn nên tôi đã trao đổi phối hợp với tổ nuôi, chế biến những món ăn mềm, xay nhỏ, phù hợp với trẻ 24-36 tháng tuổi.
(Hình ảnh 5: Tổ chức giờ ăn)
Hoạt đông ngủ: Khi trẻ chuẩn bị lên giường giáo viên chú ý xem trẻ còn ngậm ăn trong miệng không, kiểm tra tay, túi quần áo xem có vật nhỏ lạ, các loại hạt, kẹo cứng, đồ chơi trên người trẻ tránh trường hợp khi ngủ trẻ trêu ghẹo nhét vào miệng, mũi, tai. Để dị vật rơi vào đường thở gây ngạt thở. Phòng ngủ phải được thông thoáng tránh trường hợp khi trẻ ngủ trẻ hít phải khí độc từ các nguồn gây ô nhiễm rất dễ bị ngộ độc. Giáo viên luôn bao quát trẻ không để trẻ ngủ lâu trong tư thế nắm sấp xuống đệm, úp mặt xuống gối sẽ thiếu dưỡng khí gây ngạt thở.
(Hình ảnh 6: Đảm bảo an toàn cho trẻ khi trẻ ngủ)
Bằng việc thường xuyên giám sát, ở gần trẻ tôi đã loại bỏ được hết những tai nạn có thể xảy ra. Đồng thời trẻ lớp tôi đã nhận biết được một số nguy cơ gây nguy hiểm cho bản thân và biết cách phòng tránh.
Biện pháp 3: Nâng cao kĩ năng nhận biết nguy cơ không an toàn và phòng tránh tai nạn cho trẻ.
Để nâng cao kĩ năng nhận biết nguy cơ không an toàn và phòng tránh tai nạn cho trẻ tôi đã nghiên cứu sách chương trình giáo dục mầm non theo độ tuổi từ đó xây dựng nội dung dạy trẻ kỹ năng để nhận biết và phòng tránh nguy hiểm phù hợp được lồng ghép vào trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ theo từng tháng. Bản thân tôi nhận thấy việc đưa các nội dung giáo dục về an toàn cho trẻ là vô cùng cần thiết. Vì thông qua các nội dung giáo viên đưa ra trẻ nhận biết được các nguy cơ không an toàn xung quanh trẻ từ đó trẻ có kiến thức, chủ động phòng tránh cho bản thân.
Căn cứ vào đặc điểm lứa tuổi, sách hướng dẫn thực hiện chương trình độ tuổi 24-36 tháng tuổi, tôi đã lựa chọn những nội dung giáo dục để xây dựng kế hoạch dạy theo các tháng như sau:
| Kế hoạch giáo dục | Nội dung giáo dục | Mục đích |
| Tháng 9 | - Bé làm gì khi có người lạ đến đón? - Những điều cần tránh khi chơi. | - Trẻ biết nói không khi có người lạ đến đón về. - Trẻ biết khi chơi không được ném đồ chơi vào bạn, không ngậm, nuốt đồ chơi, không cho đồ chơi vào mũi, tai, miệng... |
| Tháng 10 | - Đồ dùng gia đình nào an toàn, không an toàn? - Trẻ nhận biết các vật gây hóc sặc. | - Trẻ nhận biết được những loại đồ dùng an toàn và những loại đồ dùng không an toàn với bản thân. - Trẻ biết các vật gây hóc sặc và tránh xa các vật đó. |
| Tháng 11 | - Nhận biết các ký hiệu thông thường: WC, cấm lửa, cấm sờ vào ổ điện. - Biết tránh các vật nguy hiểm: vật sắc nhọn. | - Trẻ biết được một số kí hiệu thông thường để không sờ vào những nơi có lửa hay ở điện. - Trẻ biết tránh xa các vật sắc nhọn. |
| Tháng 12 | - Bé có thể nhờ sự giúp đỡ từ ai? - Làm gì khi ở gần bể nước, ao, hồ, sông? | - Trẻ biết nhờ đến sự trợ giúp của cô giáo,bố mẹ khi bé cần dùng kéo hoặc những đồ vật quá cao.... - Trẻ biết tránh xa những nơi đó, không chạy nhảy, đùa nghịch quanh khu vực có chứa nước. |
| Tháng 1 | - Khi đi chơi bé cần nhớ những gì? - Không nhận quà bánh của người lạ. | - Luôn nắm chặt tay bố mẹ, người lớn. Không đi theo hoặc nhận quà từ người lạ. - Trẻ biết trả lời “không” khi có người không quen mời mình uống nước, ăn kẹo, ăn bánh. |
| Tháng 2 | - Những điều lưu ý khi ra vườn. - Những lưu ý khi ở độ cao | - Trẻ biết khi ra vườn chơi phải đi dép hoặc giày, không chạm vào các con côn trùng đậu trên hoa... - Trẻ biết khi lên xuống cầu thang không được đùa nghịch, đùn đẩy bạn. Không được trèo lan can. |
| Tháng 3 | - Phòng ngừa chó cắn, mèo cào. - Những lưu ý với các vật gây bỏng | - Trẻ biết không tiến lại gần nếu con chó, mèo đó đang ăn, bị xích. - Trẻ nhận biết các vật gây bỏng. Biết kêu người lớn giúp đỡ khi cần. |
| Tháng 4 | - Bé bảo vệ mình khi thời tiết nắng hoặc mưa. - Trẻ không tự ý lấy thuốc uống. | - Trẻ biết khi trời nắng phải đội mũ, nón, đeo khẩu trang khi ra đường. Trời mưa phải mặc áo mưa, che ô. Không ra nắng hoặc mưa chơi. - Trẻ biết không được tự ý lấy thuốc uống. Cần có người lớn cho phép. |
| Tháng 5 | - Bé làm gì khi tham gia các hoạt động đông người | - Khi ở trường, hoặc nơi bé tham gia sự kiện bé luôn bám sát bố mẹ, ngồi đúng vị trí người lớn yêu cầu, không được tự ý chạy nhảy lung tung. |
Sau khi lựa chọn các nội trong tháng tôi thiết kế các hoạt động cụ thể để triển khai dạy trẻ, có những nội dung phù hợp với việc lồng ghép trong các hoạt động học, có nội dung được đưa vào hoạt động ngoài trời, hoạt động góc, hoạt động ăn ngủ. Nhưng cũng có nội dung được tổ chức thành một hoạt động học cụ thể, với những tình huống giáo viên xây dựng, trẻ được nhập vai trải nghiệm từ đó giúp trẻ có kiến thức và phòng tránh được các nguy cơ mất an toàn xung quanh trẻ.
Biện pháp 4: Thường xuyên loại bỏ đồ dùng, đồ chơi gây nguy hiểm.
Đồ dùng đồ chơi là những vật dụng cần thiết và thiết yếu trong giáo dục mầm non, hàng ngày trẻ tiếp xúc rất nhiều với đồ dùng đồ chơi, nhờ có đồ dùng đồ chơi mà các hoạt động từ dạy học và vui chơi của trẻ trên lớp mới có thể thành công. Đồ dùng đồ chơi rất cần thiết với trẻ mầm non, vì vậy để có những đồ dùng đồ chơi an toàn cho trẻ thì cần thường xuyên loại bỏ những đồ dùng đồ chơi hư hỏng và mất an toàn cho trẻ. Giáo viên phải thường xuyên vệ sinh đồ dùng, đồ chơi hàng ngày, hàng tuần để đảm bảo vệ sinh và loại bỏ những đồ chơi gây mất an toàn cho trẻ.
(Hình ảnh 7: Vệ sinh, kiểm tra, loại bỏ đồ dùng đồ chơi mất an toàn)
Một số đồ dùng đồ chơi thuộc loại nhựa giòn dễ vỡ gây nguy hiểm, vậy khi chọn lựa đồ chơi cho trẻ giáo viên cần lưu ý chọn cho trẻ đồ chơi có xuất xứ rõ ràng, các thông số về kỹ thuật cũng như chất liệu tạo thành được nhà sản xuất ghi đầy đủ, rõ ràng trên bao bì sản phẩm đảm bảo an toàn cho trẻ khi chơi. Cất giữ vật dụng sắc nhọn xa tầm với của trẻ, loại bỏ các vật dụng sắc nhọn bằng kim loại, mảnh thủy tinh, gốm, sắt… khỏi nơi vui chơi của trẻ. Bên cạnh việc loại bỏ đồ dùng, đồ chơi nguy hiểm thì giáo viên phải luôn cẩn trọng với đồ dùng dạy học của cô như: Dao, kéo, thước kẻ, súng bắn keo nến… khi dùng xong cô cần phải cất gọn đúng nơi quy định, cất cao khỏi tầm tay với của trẻ. Báo ngay với Ban giám hiệu nếu trong lớp có đồ dùng, đồ chơi bị hỏng để thay đồ dùng đồ chơi mới ngay đảm bảo an toàn và có đồ chơi cho trẻ kịp thời.
Biện pháp 5: Tự học tập, bồi dưỡng nâng cao kiến thức về phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ.
Giáo viên là người trực tiếp chăm sóc trẻ khi ở lớp, vì vậy bồi dưỡng kiến thức về phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ là rất quan trọng. Ngoài việc tham gia đầy đủ vào các buổi tập huấn do nhà trường và phòng giáo dục tổ chức giáo viên còn cần nghiên cứu sách báo và hoàn thiện nội dung, chương trình giáo dục nội khoá và ngoại khoá về phòng, chống tai nạn, thương tích cho phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi và tình hình thực tế ở địa phương. Tổ chức và tham gia các cuộc thi tìm hiểu về cách phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ. Thực hiện nghiêm túc và có chất lượng về nội dung giáo dục phòng, tránh tai nạn, thương tích đã được Bộ quy định tại chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Cần chú trọng việc trang bị kiến thức và hình thành kỹ năng phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ. Giáo viên cũng cần tham gia các lớp tập huấn về Y tế để nâng cao kiến thức vế cách sơ cứu kịp thời nếu trẻ không may gặp tai nạn. Giáo viên phải được tập huấn kiến thức và kĩ năng về phòng và xử trí ban đầu một số tai nạn thường gặp như sặc, bỏng, gãy xương… Khi trẻ bị tai nạn phải bình tĩnh xử trí sơ cứu ban đầu tại chỗ, đồng thời báo cho cha mẹ và y tế nơi gần nhất để cấp cứu kịp thời cho trẻ.
Tham mưu với ban giám hiệu đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phòng, tránh tai nạn, thương tích (băng, nẹp cứu thương…) củng cố và phát triển phòng Y tế để đáp ứng được nhiệm vụ phòng, tránh tai nạn, thương tích; phát hiện và xử lý kịp thời khi có tai nạn thương tích xảy ra trong nhà trường.
Biện pháp 6: Tuyên truyền và phối kết hợp với phụ huynh để đảm bảo an toàn và phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ
Công tác tuyên truyền với cha mẹ trẻ hoặc người chăm sóc trẻ là một trong những biện pháp vô cùng quan trọng, việc làm rất cần thiết tạo cho trẻ một môi trường an toàn về sức khỏe, tâm lí và thân thể của trẻ. Tôi đã tuyên truyền cho cha mẹ trẻ hoặc người chăm sóc trẻ thực hiện tốt các các biện pháp an toàn cho trẻ, để phòng tránh những tai nạn cho trẻ có thể xảy ra tại gia đình, trên đường đến trường hoặc đón trẻ từ trường về nhà. Tuyệt đối không để trẻ nhỏ dưới 15 tuổi đi đón em học trong trường mầm non.
Do đặc thù của công việc và đặc thù tại địa phương nên phụ huynh rất bận, nên tôi tuyên truyền trao đổi với cha mẹ trẻ hoặc người chăm sóc trẻ vào giờ đón trả trẻ, qua các buổi họp phụ huynh hoặc tuyên truyền trên loa đài, khẩu hiệu, tranh áp phích, tờ rơi để tôi tuyên truyền về cách phòng tránh tai nạn thương tích tại nhà giúp cho phụ huynh hiểu rõ hơn về cách phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ. Cũng như khuyến khích phụ huynh dán những cảnh báo nguy hiểm ở ổ điện, để những vật dụng gây mất an toàn lên cao, đúng nơi quy định nhất là các loại dao kéo, phích nước, các loại thuốc… thường xuyên loại bỏ những đồ chơi gây mất an toàn ở nhà, kiểm tra quần áo trước khi mặc cho trẻ tránh trường hợp có côn trùng bám vào khi phơi lại mặc cho trẻ khiến trẻ ngứa ngáy khó chịu.
Qua các lần tuyên truyền về cách phòng tránh tránh những tai nạn cho trẻ với cha mẹ trẻ hoặc người chăm sóc trẻ giúp giáo viên và phụ huynh có những biện pháp hiệu quả trong việc phòng tránh tai nạn cho trẻ. Từ đó giúp giáo viên thuận lợi trong việc giáo dục trẻ tránh những nơi nguy hiểm, không an toàn với trẻ. Giáo viên yên tâm hơn trong công tác phòng tránh tai nạn tại nhà vì phụ huynh đã có kiến thức về cách phòng tránh tai nạn cho con mình.
III.2. Tính mới, tính sáng tạo.
III.2.1.Tính mới.
Khác với những sáng kiến mà tôi cùng các đồng nghiệp trước đây đã áp dụng để đảm bảo an toàn phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ trong trường mầm non chỉ chú trọng đề cao vai trò của giáo viên như thế vô hình chung đè nặng thêm lên đôi vai của giáo viên và cứ thế ngày này, qua tháng khác giáo viên giống như một “Siêu nhân” để bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu nếu trẻ gặp nguy hiểm thì những “cô giáo siêu nhân” ấy sẽ phải có mặt ngay để đưa trẻ ra khỏi vùng nguy hiểm. Tuy nhiên chúng ta cần nhìn nhận thẳng thắn rằng 1 ngày ở trường trẻ tham gia rất nhiều hoạt động, với nhiều trẻ cùng tham gia, giáo viên sẽ có lúc không thể túc trực bên trẻ cũng như khi ở nhà người lớn cũng không thể cả ngày đứng bên để quan sát, giúp đỡ trẻ. Người lớn thường hay cho rằng trẻ 24-36 tháng tuổi mới từ nhà trẻ lên, ăn còn chưa thành thì làm sao có thể biết phòng tránh nguy hiểm cũng như tự biết bảo vệ bản thân khỏi những nguy cơ mất an toàn. Chính vì những suy nghĩ hạn hẹp đó mà chúng ta đã làm cho đứa trẻ ỷ lại, trẻ không có kiến thức, kĩ năng phòng tránh nên trẻ rất dễ gặp guy hiểm. Do vậy khi áp dụng Sáng kiến “Một số biện pháp đảm bảo an toàn, phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non” không chỉ phát huy được vai trò của giáo viên và phụ huynh trong việc đảm bảo an toàn, phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ thì sáng kiến chú trọng xây dựng các nội dung giáo dục cho trẻ theo tháng để giáo viên dạy trẻ nhận biết được những nguy cơ mất an toàn và dưới sự hướng dẫn truyền thụ của giáo viên cùng các tình huống cụ thể trẻ đã lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, sâu sắc, hiệu quả. Trẻ tự chủ động hơn trong việc phòng tránh tai nạn thương tích, trẻ có kiến thức, có kĩ năng, biết cách ứng phó với nguy hiểm.
III.2.2. Tính sáng tạo.
Mặc dù việc đảm bảo an toàn, phòng chống tai nạn thương tích trong trường mầm non không phải mới mẻ tuy nhiên nhiều giáo viên chưa thực sự quan tâm, kiến thức về đảm bảo an toàn cũng như xử lí các tình huống khi gặp phải nguy cơ mất an toàn cho trẻ còn hạn chế thì qua sáng kiến này đã làm rõ được những vấn đề giáo viên cần làm, nên làm và làm như thế nào để mang lại hiệu quả. Sáng kiến cũng chỉ ra được để đảm bảo an toàn và phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ không chỉ là nhiệm vụ của một cá nhân mà nó đòi hỏi sự phối hợp linh hoạt của giáo viên với phụ huynh, của giáo viên với trẻ, phụ huynh với trẻ và không thể thiếu được đó là sự nỗ lực, nghiên cứu, tìm tòi học hỏi, tâm huyết của bản thân mỗi giáo viên.
III.3. Phạm vi ảnh hưởng, khả năng áp dụng của sáng kiến
Việc đảm bảo an toàn và phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở tất cả các trường mầm non, với sáng kiến này không đòi hỏi sự đầu tư về kinh phí, vật chất bổ sung nhưng vẫn mang lại hiệu quả cao, giúp cho trẻ lớp tôi được đảm bảo an toàn mọi lúc, mọi nơi. Qua việc áp dụng các Sáng kiến “Một số biện pháp đảm bảo an toàn, phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non” trong lớp tôi không có các đồ dùng đồ chơi gây nguy hiểm. Môi trường trong và ngoài lớp luôn đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ. Giáo viên đã nắm vững được nội dung, biện pháp và cách phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ 24-36 tháng tuổi nói riêng và học sinh toàn trường nói chung. 100% trẻ lớp tôi nói riêng và học sinh toàn trường không gặp phải những tai nạn thương tích đáng tiếc. Trẻ cơ bản đã có kiến thức và chủ động phòng tránh tai nạn thương tích, phụ huynh rất tích cực trong việc phối hợp cùng giáo viên nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Như vậy các biện pháp của sáng kiến đưa ra phù hợp với giáo viên, với trẻ và phù hợp với phụ huynh vì vậy Sáng kiến không chỉ áp dụng cho trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non Trung Lập mà Sáng kiến này có khả năng áp dụng cho trẻ 24-36 tháng tuổi ở các trường khác trong địa bàn huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.
III.4. Hiệu quả, lợi ích thu được từ sáng kiến.
a. Hiệu quả kinh tế:
Khi áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp đảm bảo an toàn, phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non” tôi đã không sử dụng bất cứ nguồn kinh phí nào của bản thân cũng như của nhà trường. Qua việc thực hiện áp dụng Sáng kiến tôi thấy trẻ được vui chơi thỏa thích, thỏa mãi nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh của trẻ mà trong thế giới đó không có sự nguy hiểm với trẻ. Giáo viên biết cách phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ, tránh được những điều đáng tiếc xảy ra, đảm bảo an toàn về con người và tài sản.
Từ những suy nghĩ đơn giản về tai nạn thương tích đối với trẻ, sau khi trò chuyện, trao đổi cùng giáo viên giờ đây phụ huynh đã có những việc làm cụ thể và hiểu biết sâu sắc hơn về tầm quan trọng của việc phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ. Phụ huynh có ý thức hơn trong công tác phòng tránh tai nạn thương tích cho con em mình, phụ huynh đã ủng hộ kinh phí Xã hội hóa cùng nhà trường xây dựng, nâng cấp và sửa chữa một số đồ dùng đồ chơi, tạo điều kiện cho cô và trẻ trong mọi hoạt động.
b. Hiệu quả về mặt xã hội:
Việc đảm bảo an toàn và phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ là một hoạt động tổng hợp đòi hỏi gia đình và nhà trường, giáo viên và phụ huynh cùng tham gia. Giúp trẻ hiểu được tầm quan trọng của việc phòng tránh tai nạn thương tích, như vậy cũng sẽ góp phần xây dựng kinh tế xã hội đất nước. Những chủ nhân tương lai cần được chăm sóc khỏe mạnh, được giáo dục tốt để hình thành những thói quen, kỹ năng tự bảo vệ chính mình. Đây là tránh nhiệm và lương tâm, phấn đấu cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một xã hội trật tự, kỷ cương, văn minh và hiện đại.
c. Giá trị làm lợi khác:
Khi áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp đảm bảo an toàn, phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non” đã nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ trong trường mầm non Trung Lập. Bản thân giáo viên được trau dồi kiến thức, kỹ năng phòng tránh các tai nạn thương tích cho trẻ, biết xử trí ban đầu một số tai nạn có thể xảy ra với trẻ. Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ trẻ để phòng tránh tại nạn thương tích cho trẻ ở trường mầm non cũng như ở nhà. Bên cạnh đó công tác chủ nhiệm và quản lý lớp học của tôi được nhà trường và cha mẹ trẻ đánh giá cao. Phụ huynh yên tâm khi gửi con tới lớp, củng cố niềm tin yêu của phụ huynh với giáo viên và nhà trường.
Trên đây là toàn bộ nội dung Bản mô tả Sáng kiến “Một số biện pháp đảm bảo an toàn, phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ 24-36 tháng tuổi trong trường mầm non” và được áp dụng hiệu quả tại lớp/trường tôi đang công tác. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí trong Hội đồng thẩm định Sáng kiến để Sáng kiến này hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
| CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN (xác nhận) ................................................................. ................................................................. ................................................................. ................................................................. | TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Phạm Thị Tuyến |